Giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ luật dân sự 2015

Các phương thức trong giả quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
(Ảnh minh họa - Nguồn: Internet)

Chia sẻ nếu thấy nội dung này hữu ích

Giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 122 của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015.

 

Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

 

Bình luận:

Giao dịch được xác lập, nhưng giao dịch có thể bị tuyên vô hiệu vì giao dịch không thực hiện theo các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 BLDS. Điều 117 Bộ luật quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch về chủ thể, về ý sử thể hiện ý chí của chủ thể, về mục đích và nội dung của giao dịch và về hình thức của giao dịch nếu pháp luật có quy định hình thức bắt buộc của một giao dịch nào đó thì hình thức này là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.

Trường hợp loại trừ là trường hợp giao dịch không tuân theo các điều có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung, là các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 125 BLDS, cụ thể:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 125 thì giao dịch do những người nói trên xác lập, thục hiện không bị vô hiệu trong trường hợp sau:

+ Giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đắp ứng nhu cầu thiết yếu của người đó;

+ Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ.

+ Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Quy định về điều kiện của chủ thể xác lập, thục hiện giao dịch dân sự theo Điểm a Khoản 1 Điều 117, có những trường hợp cá biệt theo quy định tại Khoản 2 Điều 125 BLDS thì giao dịch không bị xác định vô hiệu.

Quy định về điều kiện của chủ thể xác lập và thực hiện giao dịch trong những trường hợp theo quy định tại Khoản 2 Điều 125 là một quy định mới so với quy định về điều kiện của chủ thể trong giao dịch dân sự trong BLDS năm 2005. Tuy nhiên, cần phải làm rõ một số vấn đề liên quan đến quy định mới này.

dựa vào thực tế của đời sống và quan hệ xã hội, chủ thể tham gia giao dịch dân sự chưa đủ 6 tuổi và cá nhân mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết hằng ngày của người đó, thì giao dịch có hiệu lực pháp luật. Việc xác định nhu cầu cần thiết của cá nhân dưới 06 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự tham gia giao dịch dân sự để đáp ứng nhu cầu đó là thật sự cần thiết. những nhu cầu cần thiết phù hợp với nhạn thức của cá nhân này là vui chơi, rèn luyện sức khỏe, thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tinh thần trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, biểu diễn, nhu cầu về ẩm thực, nước giải khát, nhu cầu về văn hóa phẩm, nhu cầu về  nghỉ ngơi… thì những giao dịch mà cá nhân dưới 06 tuổi và cá nhân mất năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện vẫn có hiệu lực và người đại diện cho họ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những giao dịch do họ xác lập. Quy định này là phù hợp với thực tiễn đời sống,loại bỏ được những quan niệm máy móc liên quan đến chủ thể của giao dịch dân sự.

+ Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ. Quy định này nhằm bảo vệ quyền của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi tham gia giao dịch với chủ thể khác mà chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho họ thì giao dịch có hiệu lực. Đây là một quy định mang tính cải cách tư duy và quan điểm lập pháp ở Việt Nam trong BLDS năm 2015. Thực tế đã cho thấy, trong nhiều năm qua, người ta quá quan tâm đến tư cách của chủ thể trong giao dịch là người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự, thì giao dịch đó mới có hiệu lực. Quy định cứng như vậy, dữ liệu những quan hệ khách quan phát sinh trên thực tế của đời sống xã hội, mà máy móc xác định giao dịch vô hiệu và không thực tế, không phù hợp với các quan hệ xã hội đa dạng và phong phú mang tính nhân văn sâu sắc. Ví dụ: Người trưởng thành tặng cho người chua thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi một bất động sản hoặc động sản có giá trị lớn, mà pháp luật có quy định động sản đó phải đăng ký quyền sở hữu, thì giao dịch này không thể tuyên vô hiệu, vì những người chưa có đủ năng lực hành vi dân sự, người bị mất năng lực hành vi dân sự được tặng cho tài sản mà (không có đền bù) thì không thể xác định giao dịch vô hiệu. Nguyên tắc này đã được quy định và áp dụng trong pháp luật tư pháp La Mã cổ đại cách ngày nay hàng ngàn năm.

Tuy nhiên, cần phân biệt quy định này với quy định tại khoản 2 Điều 22 đối với những người mất năng lực hành vi dân sự: “giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện”. Quy định tại Khoản 2 Điều 22 là quy định chung cho các loại giao dịch mà cá nhân người bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật của người này xác lập, thực hiện. Những quy định tại Khoản 2 Điều 125 BLDS là quy định đặc thù nhằm điều chỉnh quan hệ giao dịch chỉ mang lại lợi ích hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch đối với họ.

+ Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Đây là một quy định mang tính giải pháp đối với chủ thể trong quan hệ dân sự, mà pháp luật quy định người tham gia giao dịch phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, những cá nhân chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự vẫn xác lập giao dịch này, nhưng khi người này thành niên, vẫn thừa nhận giao dịch mà mình đã xác lập khi chưa thành niên thì giao dịch này vẫn có hiệu lực.

(Nội dung được trích từ Bình luận Khoa học BLDS 2015, tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ – PGS.TS. Trần Thị Huệ,  tr244)