Một số vấn đề cần thiết nghiên cứu của BLDS 2015 về thừa kế
Chế định thừa kế – một trong những chế định trọng tâm của BLDS cũng đã có sự thay đổi căn bản. Tuy vây, với ý nghĩa của lần sửa đổi này, chúng tôi nhận thấy việc đánh giá và hoàn thiệt quy định của BLDS 2005 về thừa kế chưa được thực sự sâu sắc. Đặc biệt, chúng ta đang cố gắng hoàn thiện quyền năng của các chủ thể trong quan hệ thừa kế một cách toàn diện, đồng thời bảo đảm quá trình khai thác, sử dụng di sản của người thừa kế, người có liên quan đến di sản thừa kế được thức hợp hóa dưới phương diện pháp lý thì sự thay đổi lần này có thể nói vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Với việc đánh giá này, chúng tôi xin phân tích ở một số nội dung sau:
Thứ nhất quy định về người quản lý di sản.
Người quản lý di sản được xác định do người để lại di sản chỉ định trong di chúc hoặc do người quản lý di sản thừa kế thỏa thuận cử ra. Hiện tại, quy định về người quản lý di sản được thừa kế từ BLDS 1995 và BLDS 2005 với những quy định về cách xác định, quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản. Với quy định này, tác giả cho rằng BLDS 2015 đang “né – tránh” việc ghi nhận vai trò của người quản lý di sản khi họ thực hiện hoặc cho người khác thực hiện quyền sử dụng các di sản trong quá trình quản lý. Đồng thời cũng chưa quy định về hậu quả pháp lý di sản khai thác, sử dụng di sản thừa kế để hưởng lợi ích, thậm chí tạo ra hoa lợi lợi tức.
Thực tế nhìn nhận, khoảng thời gian người quản lý di sản thực hiện các nghĩa vụ của mình , đặc biệt là trông coi, bảo quản di sản có thể rất dài phụ thuộc vào nhiều lý do khác nhau. Trong cả khoảng thời gian đó, khi xét về mặt vật lý và ý nghĩa xã hội thì di sản (tài sản) vẫn cần phải được sử dụng để mang lại những lợi ích tối đa cho con người. Người quản lý di sản chỉ cần đảm bảo quyền và lợi ích phù hợp tương xứng của những người thừa kế và người có liên quan đếm di sản thừa kế. Vậy nhưng, các BLDS đều không quy định đến quyền năng được khai thác, sử dụng của người quản lý di sản. Lại càng chưa triệt để khi BLDS không quy định cách thức giải quyết hậu quả khi người quản lý di sản cố tình thực hiện việc khai thác, sử dụng các di sản đó. Tác giả cho rằng, đây là một quy định cần phải được hướng dẫn, hoàn thiện hơn nữa trong bối cảnh đất nước đang xây dựng cơ chế thị trường như hiện nay, vừa đảm bảo được việc trông coi, quản lý di sản có hiệu quả, vừa nâng cáo tính hiệu quả trong việc khai thác, sử dụng di sản trong khoảng thời gian chờ xác lập quyền sở hữu khi thực hiện trình tự, thủ tục phân chia di sản, đồng thời không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thừa kế.
Thứ hai, quy định về di sản thờ cúng.
Di sản dùng vào việc thờ cúng là những tài sản do người quá cố để lại thưởng có giá trị tâm linh, thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn dân tộc ta. Một trong những loại tài sản phổ biến mà chúng ta thường thấy được dùng vào việc thờ cúng đó là đất hương hỏa kèm theo các loại tài sản bất động sản khác có giá trị như nhà ở sau dùng làm nhà thờ hoặc vườn cây lâu năm, các loại tài sản là động sản khác ít khi được chỉ định dùng vào việc thờ cúng.
Điều 645 BLDS 2015 kế thừa gần như toàn bộ quy định tại Điều 670 BLDS 2005 về di sản dùng vào việc thờ cúng, cụ thể: “Trường hợp người lập di chúc có thể để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.” Quy định này đã chỉ rõ, di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế. Điều đó có ý nghĩa là, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ không thuộc sở hữu riêng hoặc sử dụng riêng của bất kỳ người nào. Tuy nhiên, cách quy định trên cũng chưa chỉ rõ di sản dùng vào việc thờ cúng có thuộc sở hữu chung hoặc sử dụng chung của những chủ thể nào hay không.
Vì vậy, quy định nêu trên của BLDS chưa thể giải quyết được bất cập trong các tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng là các bất động sản (như quyền sử dụng đất hiện nay). Như chúng ta đã biết, pháp luật đất đai chỉ có quy định về cộng đồng dân cư có quyền sử dụng đất chung đất nhà thờ họ (Điều 5 Luật đất đai 2013) mà không có quy định nào điều chỉnh việc người sử dụng đất để lại quyền sử dụng đất của mình để làm di sản thờ cúng (đất hương hỏa). Điều này có ý nghĩa là khi một người được thừa kế đất hương hỏa và sau khi được đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai thì người đó sẽ trở thành người có quyền sử dụng đất (có thể chuyển quyền cho người khác). Việc này hoàn toàn chưa phù hợp với phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta cũng như tâm cúng, không được phép mua bán, chuyển nhượng và nó cũng chưa đúng với tinh thần tại khoản 1 Điều 645 của BLDS 2015.
Do đó, để khắc phục sự thiếu vắng các quy định của pháp luật đất đai, đồng thời, bảo đảm tính hiệu quả cao trong công việc khai thác, sử dụng di sản kể cả di sản dùng vào mục đích thờ cúng, hương hỏa, cơ quan có thẩm quyền cần có những hướng dẫn cụ thể quy định nêu trên của BLDS 2015.
Thứ ba, quy định về hạn chế phân chia di sản.
Quy định hạn chế phân chia di sản tại Điều 661 BLDS 2015: “Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì khi chỉ khi đã hết hạn thời hạn đó di sản mới được đem chia” là sự kế thừa quy định của BLDS 2005. Đây là quy định phù hợp nhưng chưa triệt để khi kết nối với các quy định khác. Lý giải cho điều này, tác giả liên hệ với quy định tại Điều 645 BLDS 2005 và hiện này đã có sự thay đổi tại Điều 623 BLDS 2015 về thời hiệu thừa kế. Việc hạn chế phân chia di sản xuất phát từ mong muốn của người để lại di sản hoặc những người thừa kế là quy định đúng đắn khi nhìn nhận từ góc độ quyền của họ. Tuy nhiên, “Thời hạn nhất định” – thuật ngữ đề cập trong quy định trên là một định tính trừu tượng không được làm rõ. Trong khi, pháp luật định lượng rõ mốc thời gian của thời hiệu về thừa kế đối với từng trường hợp có thể là 10 năm, 30 năm, 3 năm. Rõ ràng, quy định trên không thể triệt để để khi đặt ra trường hợp người để lại di sản hạn chế phân chia di sản vượt quá cả các mốc thời hiệu. Nếu như vậy, quyền và lợi ích của những người thừa kế, người có liên quan đến thừa kế có thể bị ảnh hưởng. Hơn nữa, chúng ta cũng phải đặt ra trường hợp trong khoảng thời hạn đó: (i) Một trong số những người thừa kế chết; (ii) Di sản thừa kế vẫn được khai thác tạo ra hoa lợi , lợi tức… càng thêm minh chứng cho việc quyền và lợi ích của người thừa kế khó có khả năng được đảm bảo. Như vậy, tính hiệu quả trong việc khai thác, sử dụng di sản của người thừa kế sẽ không thực sự được nâng cao. Tính định hướng và hoàn thiện các mục tiêu cho nền kinh tế thị trường trong giai đoạn này hiện nay tại Việt Nam cũng ít nhiều bị ảnh hưởng.
Thứ tư, cách xác định di sản thừa kế.
BLDS không đưa các quy định xác định di sản thừa kế vào thời điểm nào, mà chỉ quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Theo quy định này, cách thức xác định di sản được suy đoán bao gồm tài sản của người chết và tài sản chung của họ với người khác. Cụ thể hơn, di sản thừa kế của người chết sẽ được xác định là tổng tài sản của họ tính hợp pháp cho đến khi chết.
Như tác giả đã đề cập với những quy định hiện tại của BLDS 2015 cũng như các BLDS trước đó chưa thực sự triệt để trong việc nâng cao tính hiệu quả cho quá trình khai thác, sử dụng di sản của những người thừa kế và những người có liên quan đến di sản thừa kế. Với quy định về cách xác định di sản nói trên còn một số vướng mắc: Một là, nhiều loại di sản của người chết chưa chia vẫn được khai thác, sử dụng vì giá trị lợi ích mà nó đem lại cho con người cao như: quyền sở hữu trí tuệ, nhà ở, quyền sử dụng đất… Điều đó cho thấy, khối di sản này vẫn tạo ra được các giá trị phái sinh khác, thậm chí còn mang lại giá trị kinh tế rất lớn. Không thể phủ nhận vai trò của những tài sản phải sinh này có ý nghĩa với con người. Tuy nhiên, điều chúng ta lo ngại nhất là tranh chấp xảy ra lại thiếu đi cơ sở pháp lý để giải quyết. Rõ ràng, quy định của BLDS về vấn đề này vẫn còn chưa cụ thể, cần thiết phải được hướng dẫn. Hai là, thực tế khi một người chết đi rất ít khi người thừa kế hoặc người có liên quan yêu cầu chia di sản thừa kế ngay. Điều này, đồng nghĩa với việc họ sẽ không xác định di sản thừa kế ngay từ thời điểm mở thừa kế của người chết. Mà thông thường, họ sẽ xác định di sản thừa kế khi thỏa thuận phân chia hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định di sản. Lúc này, khối di sản thực tế của người chết có thể gia tăng hoặc giảm sút. Kể cả di sản thừa kế có gia tăng hay giảm sút thì đến cho thời điểm này, pháp luật vẫn chưa có quy định rõ ràng để giải quyết hậu quả trong từng trường hợp.
Theo quan điểm của tác giả, pháp luật nên hướng dẫn rõ hơn 03 năm vấn đề:
– Thời điểm xác định di sản thừa kế là thời điểm mở thừa kế.
– Các tài sản phát sinh từ di sản thừa kế, trừ các trường hợp trong di chúc chỉ định người hưởng đồng thời ghi rõ di sản được hưởng thì toàn bộ tài sản phát sinh từ chối di sản đó sẽ thuộc về người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc.
– Quy định các giải quyết hậu quả pháp lý trong trường hợp chưa xác định di sản thừa kế vào thời điểm mở thừa kế mà di sản gia tăng hoặc giảm sút giá trị.
Tóm lại, thừa kế được xác định là một trong các chế định trọng tâm của BLHS 2015. Trong quá trình sửa đổi, bổ sung, những quy định trọng yếu nhất cũng đã được ghi nhận, chỉnh sửa nhằm hướng tới tính hiệu quả tối đa, bảo đảm việc khai thác, sử dụng di sản của người thừa kế và những người có liên quan đến di sản thừa kế. Mặc dù vẫn còn một số tồn đọng nhưng những sửa đổi, bổ sung trong BLDS về thừa kế vẫn được coi là điểm mới mang tính đột phá. Việc đề xuất hoàn thiện quy định của BLDS 2015 vào thời điểm này là chưa phù hợp nhưng để triệt để hơn khi hướng tới mục tiêu lớn của cả nước, tác giả cho rằng cần thiết phải có những văn bản dưới luật hoặc xây dựng những hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, hướng dẫn cụ thể thực hiện sống. Một mặt, bảo đảm được quyền và lợi ích của người thừa kế, mặt khác, vẫn duy trì việc khai thác, sử dụng giá trị lợi ích mà di sản thừa kế đó mang lại cho con người khi chưa hoàn tất thủ tục hợp thức hóa quyền cho người thừa kế.
(Nội dung trên được trích dẫn tại Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 – TS. Nguyễn Minh Tuấn tr. 264-270)