Bình Luận về tội vu khống trong Bộ luật hình sự 2015

Chia sẻ nếu thấy nội dung này hữu ích

Tội vu khống được quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 

Điều 156. Tội vu khống

1.người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người đang thi hành công vụ;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;*

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Vì động cơ đê hèn;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;*

c) Làm nạn nhân tự sát.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

Bình luận:

1. Vu khống, được hiểu là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều mà mình hiểu biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của người khác bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

Bộ luật hình sự 2015 quy định có các hành vi sau trong tội vu khống:

  • Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
  • Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm

+ Có hành vi bị đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Hành vi này thể hiện qua việc người phạm tội đã tự đặt ra và loan truyền những điều không xứng đúng với sự thật và có nội dung xuyên tạc để xúc phạm đến danh dự  của người khác hoặc để gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Người phạm tội thực hiện hành vi này có thể bằng cách nói trực tiếp hoặc thông qua phương tiện đại chúng, nhắn tin qua điện thoại di động…

+ Có hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền , lợi ích hợp pháp của người khác. Hành vi này được thể hiện qua việc người phạm tội tuy không đặt ra những điều không đúng sự thật về người khác và biết rõ điều đó là bịa đặt (việc biết rõ điều mình loan truyền là bịa đặt là dấu hiệu bắt buộc) nhưng vẫn loan truyền điều bịa đặt đó (nhưng nói cho những người khác biết, đưa lên phương tiện thông tin đại chúng…) Cho người khác.

+ Có hành vi bị đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Được thể hiện qua việc tự mình bịa đặt ra rằng người khác có hành vi thực hiện một tội phạm nào đó và tố cáo họ trước cơ quan Nhà nước như: Công an, Viện Kiểm sát…. mặc dù thực tế người này không phải là người thực hiện những hành vi phạm tội.

Đối tượng bị vu khống của tội này không phải là pháp nhân hay một nhóm người mà là con người cụ thể.

  • Về hậu quả: Trong trường hợp các hành vi nêu trên không có mục đích nhằm xúc phạm danh dự của người khác thì hậu quả thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
  • Khách thể tội phạm này là các hành vi nêu trên xâm phạm đến danh dự và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
  • Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Mục đích xúc phạm danh dự của người khác là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

3. Về hình phạt.

Mức hình phạt đối với tội phạm này được chia thành hai khung,cụ thể như sau:

– Khung một (Khoản 1)

Có mức hình phạt là phạt tiền từ 10.000.000  đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ cấu thành  cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan và chủ quan. Người phạm tội trường hợp qui định ở khoản 1 chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại có yêu cầu khởi tố hình sự. Nếu trước này mở phiên tòa sơ thẩm hình sự, người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ.

– Khung hai (Khoản 2)

Có mức phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

+ Có tổ chức;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Đối với 02 người trở lên;

+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

+ Đối với người đang thi hành công vụ;

+ Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%

+ Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

– Khung ba (Khoản 3)

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ  03 năm đến 07 năm:

+ Vì đồng cơ đê hèn;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

+ Làm nạn nhân tự sát;

Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt hành chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội có thể bị :

+ Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng

+ Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm

Thực tế có rất nhiều tin báo tố giác tội phạm do công dân, tổ chức cung cấp, nhưng qua điều tra xác minh Cơ quan điều tra xác định không có tội phạm xảy ra và đã quyết định không khởi tố vụ án. Có trường hợp đơn tố giác của tội phạm đã được đưa vào tiến trình tố tụng hình sự, nhưng sau đó cơ quan tiến hành tố tụng có quyết định đình chỉ vì không có tội  – tức là sự tố giác tội phạm sai sự thật. Trường hợp này không coi là có hành vi vu khống. Muốn xác định có hành vi vu không hay không phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào lý do, mục đích khách nhau của việc cung cấp tin báo tố giác tội phạm.

(Nội dung được trích dẫn từ: Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017- TS. Trần Văn Biên; TS. Đinh Thế Hưng – tr 193-195)